Tòa Bạch Ốc Jimmy_Carter

Chính sách

Chính sách đối ngoại của chính quyền Carter được nhớ đến nhiều nhất với vụ khủng hoảng con tin tại Iran, Hiệp ước Hòa bình Trại David giữa IsraelAi Cập, Hiệp ước SALT II giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, Hiệp ước Kênh đào Panama, theo đó con kênh được bàn giao cho Panama, thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc sau những nỗ lực mở đường của Richard Nixon, ấn định nhân quyền là tâm điểm của chính sách đối ngoại, và cuối cùng là cuộc khủng hoảng năng lượng. Trong các vấn đề quốc nội, Carter ít thành công hơn, ông tỏ ra đối nghịch với chính đảng của ông và với các đối thủ qua cung cách hành xử được xem là thái độ bất hợp tác với quốc hội – tương tự như khi ông còn là thống đốc. Dù vậy, Carter đã thành công trong việc điều chỉnh một vài ngành công nghiệp, củng cố các cơ quan chính quyền, thiết lập chính sách năng lượng quốc gia và thành lập Bộ Năng lượng và Giáo dục, hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, bổ nhiệm con số kỷ lục phụ nữ và những người thuộc các dân tộc thiểu số vào chính quyền và ngành tư pháp, ban hành các đạo luật mạnh mẽ ủng hộ việc bảo vệ môi trường và mở rộng gấp đôi Cơ quan Quản lý Công viên Quốc gia.

Khi thị trường năng lượng bùng nổ, điều mà Carter làm mọi cách để không xảy ra, ông tính đến việc xuất hiện trước công chúng với bài diễn văn quan trọng thứ năm về năng lượng. Dù vậy, ông cảm thấy người dân Mỹ không còn muốn lắng nghe. Thay vào đó, Carter đến Trại David, suốt trong mười ngày gặp gỡ các thống đốc, thị trưởng, lãnh tụ tôn giáo, nhà khoa học, kinh tế gia và đại diện cử tri. Ông ngồi trên sàn nhà và ghi lại tất cả lời nhận xét của họ, đặc biệt là những lời chỉ trích. Những chuyên gia thăm dò dư luận nói với ông rằng người dân Mỹ đang đối diện với một cuộc khủng hoảng niềm tin khởi phát từ vụ ám sát John F. Kennedy, Chiến tranh Việt Nam, và vụ tai tiếng Watergate. Phó Tổng thống của ông, Walter Mondale, tỏ ý bất đồng và nói rằng luôn có những câu giải đáp đúng đắn cho những vấn nạn thật; và không nên triết lý hoá chúng. Ngày 15 tháng 7 năm 1979, Carter đọc bài diễn văn truyền hình toàn quốc, trong đó ông nhận diện điều mà ông tin là "cuộc khủng hoảng niềm tin" của người dân Mỹ. Được biết đến như là bài "diễn văn phiền muộn", ngay cả khi ông không hề dùng đến từ "phiền muộn" trong nội dung của nó:

Ngay bây giờ tôi muốn các bạn biết hiểm họa căn cốt đe dọa nền dân chủ Mỹ.... Tôi không nói đến sức mạnh bên ngoài của nước Mỹ, một dân tộc đang sống trong hòa bình với các dân tộc khác trên thế giới, một dân tộc đang thụ hưởng sức mạnh kinh tế và quân sự không ai sánh bằng.Hiểm họa ấy hầu như vô hình trong cuộc sống thường nhật của chúng ta. Ấy là sự khủng hoảng lòng tin. Ấy là sự khủng hoảng đang đánh thẳng vào trái tim, linh hồn và tinh thần của ý chí dân tộc chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra sự khủng hoảng này vì nó đang hiện diện trong mối nghi ngờ ngày càng gia tăng về ý nghĩa của cuộc đời chúng ta đang sống, và trong sự hao tổn tinh thần hiệp nhất dân tộc đã từng giúp chúng ta cùng hướng về một mục đích.[11]

Bài diễn văn của Carter, soạn bởi Chris Matthews, được đón nhận rộng rãi,[12] dù một số người cho rằng nó trông giống một bài thuyết giáo. Song, đất nước đang gồng gánh một nền kinh tế suy yếu do lạm phát hai con số bởi giá dầu của OPEC, nhiều công dân tỏ ra thất vọng vì tổng thống không đưa ra nổi giải pháp cụ thể nào. Hai ngày sau khi đọc diễn văn, Carter yêu cầu toàn thể nội các từ chức để rồi chấp thuận sự từ chức của năm người. Về sau ông thú nhận rằng lẽ ra ông chỉ nên yêu cầu năm người này từ chức, sự kiện cả nội các từ chức ngụ ý một sự phân hoá trong Tòa Bạch Ốc. Do không có nỗ lực cụ thể nào giúp đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, uy tín của Carter càng sút giảm trong các cuộc thăm dò.

Ngày 1 tháng 10 năm 1979, Tổng thống Carter tuyên bố thành lập Lực lượng Triển khai Nhanh (Rapid Deployment Forces - RDF), đơn vị quân đội có khả năng đáp trả nhanh được dùng để điều chuyển đến những địa điểm có rắc rối trên toàn cầu mà không cần phải điều động các đơn vị của NATO. RDF là tiền thân của CENTCOM (United States Central Command - Bộ Chỉ huy Trung ương Hoa Kỳ, đơn vị chỉ huy phối hợp chiến đấu của Quân lực Hoa Kỳ, đặt dưới quyền chỉ huy hành quân của Bộ trưởng Quốc phòng).

Trong số các tổng thống phục vụ ít nhất một nhiệm kỳ, Carter là tổng thống duy nhất chưa bao giờ bổ nhiệm thẩm phán cho Tối cao Pháp viện.

Đối nội

Ngay trong ngày nhậm chức, 20 tháng 1 năm 1977, Carter thực hiện lời hứa khi vận động tranh cử bằng cách ban hành sắc lệnh tuyên bố ân xá cho những thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự trong Chiến tranh Việt Nam.[13][14]

Nền kinh tế đang gánh chịu lạm phát hai con số, lại thêm lãi suất rất cao, thiếu hụt dầu mỏ, thất nghiệp cao và tăng trưởng kinh tế chậm. Xem ra, Carter chẳng làm được gì để cải thiện tình hình trong khi các chỉ số vạch ra rằng nền kinh tế đang trên đà suy thoái, và Carter phải chịu trách nhiệm về tình trạng này. Ông thuyết phục Quốc hội cho phép nâng Bộ Năng lượng lên cấp nội các. Sau những nỗ lực khuyến khích bảo tồn năng lượng, Carter mặc áo lạnh, cho lắp đặt panô năng lượng Mặt Trời trên mái nhà Tòa Bạch Ốc, ra lệnh Ban Dịch vụ khoá đường dẫn nước nóng trong một số khu vực và không cho trang trí thắp sáng trong các ngày lễ trong năm 1979 và 1980. Các tòa nhà thương mại và công thự trên toàn quốc phải lắp đặt nhiệt kế để ngăn cản nhân viên tăng nhiệt độ phòng trong mùa đông và hạ nhiệt độ phòng trong mùa hè.

Chính phủ cũng được cải tổ bằng cách tách Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ (HEW) thành Bộ Giáo dục Hoa KỳBộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ.

Lạm phát đẩy lãi suất đến mức cao chưa từng có (trên 12% mỗi năm), vào thời điểm tháng 12 năm 1980 lên đến mức cao nhất trong lịch sử 21,5%.[15] Sự thay đổi nhanh chóng mức lãi suất làm giảm hiệu suất tín dụng của lượng tiền dự trữ trong ngân hàng, gieo mầm cho cuộc khủng hoảng tín dụng và tiền tiết kiệm. Tiền đầu tư vào các khoản lợi tức cố định (trái phiếu, hưu bổng) ngày càng mất giá, lãi suất cao dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế trong thập niên 1980.[16] Do thị trường cung ứng tiền vay cho chính phủ đang chịu sức ép, Carter bổ nhiệm Paul Volcker làm Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang,[17] thay thế William Miller, người được điều chuyển vào chức vụ Bộ trưởng Tài chánh. Volcker áp dụng các biện pháp siết chặt tiền tệ nhằm làm nguội nền kinh tế và hạ giảm lạm phát. Vockler thành công, nhưng với cái giá phải trả là kinh tế tăng trưởng chậm và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.

Tuy nhiên, trong lúc ấy cũng có những điểm sáng như việc Carter ký ban hành luật hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, làm tăng đôi chút tiền thuế lợi tức và cống hiến việc làm trong chính phủ và bộ máy tư pháp cho phụ nữ, người da đen và người nói tiếng Tây Ban Nha. Carter ban hành luật bảo vệ môi trường. Đạo luật Alaska National Interest Lands Conservation do ông ký ban hành giúp thành lập công viên quốc gia rộng 103 triệu acre (417.000 km²) ở Alaska. Ông cũng thành công trong việc điều chỉnh các ngành công nghiệp vận tải, hoả xa, hàng không, truyền thông, dầu khí và tài chính.

Đối ngoại

Nhân quyền

Jimmy Carter và Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance

Trong lĩnh vực đối ngoại, Tổng thống Carter bắt đầu tách rời khỏi chính sách được theo đuổi lâu nay với chủ trương kiềm chế Liên Xô. Thay vào đó là sách lược ngoại giao với ưu tiên hàng đầu là nhân quyền. Đây là sự khác biệt lớn so với lập trường của những tổng thống tiền nhiệm, theo đó các vi phạm nhân quyền sẽ được xem nhẹ nếu chúng xảy ra tại những nước đồng minh của Hoa Kỳ. Tại Nicaragua, chính phủ Carter ngưng ủng hộ nhà độc tài Somoza và chi hàng triệu đô la viện trợ chính phủ Sandinista lên cầm quyền sau một cuộc cách mạng. Những người Sandanista theo chủ nghĩa Marx và đang xây dựng một chế độ chuyên chế, nhưng họ có quan hệ với các phong trào Marxist đang hoạt động ở HondurasEl Salvador. Họ cũng có các mối quan hệ khác (về vũ khí, chính trị và hậu cần) với Cuba, mà Carter quan tâm nhiều đến quyền xã hội và nhân quyền trong mối xung đột lâu dài của Hoa Kỳ với Cuba.

Carter nối tiếp những người tiền nhiệm duy trì lệnh cấm vận đối với Rhodesia, đả kích việc những người Marxitst như Robert MugabeJoshua Nkomo bị trục xuất khỏi các cuộc bầu cử. Do áp lực mạnh từ Hoa Kỳ và Anh mà các cuộc tuyển cử mới được tiến hành ở đất nước lúc ấy được gọi là Zimbabwe Rhodesia. Carter nổi tiếng vì những chỉ trích của ông dành cho Alfredo Stroessner, Augusto Pinochet, chính quyền phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và những đồng minh truyền thống khác của Hoa Kỳ.

Jimmy Carter và Đặng Tiểu Bình, năm 1979

Trung Quốc

Carter tiếp tục chính sách của Richard Nixon bình thường hoá bang giao, thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, do đó chấm dứt bang giao chính thức với Trung hoa Dân quốc (dù hai nước vẫn duy trì quan hệ thương mại và Hoa Kỳ vẫn chính thức công nhận Đài Loan qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan).

Hiệp ước Kênh đào Panama

Carter cũng thành công trong nỗ lực thuyết phục Thượng viện phê chuẩn Hiệp ước Kênh đào Panama nhằm chuyển giao kênh đào cho Panama. Tuy nhiên, việc đàm phán và ký kết Hiệp ước Kênh đào Panama vào tháng 9 năm 1977 là một trong những sự kiện gây tranh cãi nhiều nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Jimmy Carter. Hiệp ước này gặp sự chống đối mạnh mẽ từ công luận Mỹ và từ Đảng Cộng hòa. Lý do chính được viện dẫn là Hoa Kỳ đang chuyển giao một tài sản có giá trị chiến lược lớn cho chính phủ thối nát dưới quyền lãnh đạo của nhà độc tài Omar Torrijos. Còn những người ủng hộ hiệp ước lập luận rằng kênh đào được xây dựng trên lãnh thổ Panama, tiếp tục kiểm soát kênh đào có nghĩa là Hoa Kỳ đang chiếm đóng lãnh thổ của một quốc gia khác. Như vậy, qua hiệp ước, Hoa Kỳ hoàn tất việc trao trả chủ quyền cho Panama.

Hiệp ước Trại David

Lễ ký kết Thỏa ước Trại David (1978): Menachem Begin, Jimmy Carter, Anwar Sadat

Nhưng thành tựu rực rỡ nhất của Carter trong suốt nhiệm kỳ tổng thống là Hiệp ước Trại David, là hòa ước được ký kết giữa IsraelAi Cập nhờ những nỗ lực đàm phán của Tổng thống Carter. Carter mời Thủ tướng Israel, Menachem BeginTổng thống Ai Cập, Anwar Sadat, đến Trại David để thương thảo. Có lúc Sadat muốn bỏ về, nhưng Carter cho biết Sadat đang làm tổn thương một người bạn và điều này có thể làm hại mối bang giao giữa hai nước, và Sadat đồng ý ở lại. Lúc khác, Begin cương quyết rút lui, Carter ký tặng ảnh và nói chuyện với các cháu của Begin khiến Begin thay đổi quyết định khi nhận ra rằng các cháu của ông và thế hệ kế tiếp của dân tộc Do Thái cần phải sống trong hòa bình. Cho đến nay, hòa bình vẫn được duy trì giữa Israel và Ai Cập.

Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược

Tổng thống Jimmy Carter và Tổng Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev ký Thỏa ước SALT II ngày 18 tháng 6 năm 1979 tại Wien

Một vấn đề ngoại giao quan trọng khác thu hút nhiều quan tâm của Carter là Hiệp ước SALT II (Strategic Arms Limitations Talks – Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược) là một chuỗi những thương thảo giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Những nỗ lực từ Gerald Ford và Richard Nixon giúp hình thành hiệp ước SALT I, nhưng Carter muốn tiến xa hơn trong lộ trình cắt giảm vũ khí hạt nhân. Ấy là mục tiêu chính của ông, như được trình bày trong bài diễn văn nhậm chức, các loại vũ khí hạt nhân cần phải biến mất khỏi mặt đất. Carter và Leonid Brezhnev, lãnh tụ Liên Xô, đã đạt được thoả ước và tổ chức lễ ký kết. Tuy nhiên, do Liên Xô chiếm đóng Afghanistan vào cuối năm 1979, hiệp ước này không bao giờ được phê chuẩn, nhưng cả hai bên hứa tôn trọng những cam kết đạt được qua đàm phán.

Afghanistan

Tháng 12 năm 1979, quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan sau khi chính phủ thân Moskva bị lật đổ. Chính phủ Carter, cùng nhiều chính trị gia thuộc đảng Cộng hòa và Dân chủ, lo ngại Liên Xô đang tìm cách kiểm soát nguồn dầu mỏ Trung Đông. Những người khác cho rằng Liên Xô quan ngại những cuộc nổi dậy Hồi giáo sẽ lan toả từ Iran và Afghanistan đến hàng triệu người Hồi giáo đang sống trong lãnh thổ Liên Xô. Carter công bố Chủ thuyết Carter: Hoa Kỳ không cho phép bất cứ lực lượng bên ngoài nào kiểm soát Vịnh Ba Tư. Carter tuyên bố chấm dứt hợp đồng lúa mì với Nga, văn kiện then chốt theo sáng kiến của Nixon nhằm thiết lập quan hệ mậu dịch với Liên Xô hầu giảm nhẹ những căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh. Xuất khẩu mễ cốc là mối lợi lớn cho nhiều người thuộc khu vực nông nghiệp, và lệnh cấm vận của Carter gây khó khăn cho nông gia Mỹ. Ông cũng cấm người Mỹ tham gia Thế vận hội Mùa hè năm 1980 tổ chức ở Moskva, và phục hồi chế độ đăng ký quân dịch. Carter và Zbigniew Brzezinski khởi xướng một chương trình bí mật trị giá 40 tỉ USD huấn luyện người Hồi giáo bảo thủ tại Pakistan và Afghanistan nhắm vào mục tiêu đánh đổ Liên Xô. Những người chỉ trích qui cho Carter và Reagan trách nhiệm tạo ra tình trạng bất ổn của các chính phủ Afghanistan sau này, lót đường cho sự trỗi dậy của các chế độ thần quyền Hồi giáo trong vùng và những vấn đề hiện nay liên quan đến người Hồi giáo bảo thủ. Tuy nhiên, một số sử gia cho rằng sự bất ổn của Afghanistan xuất phát từ những nhân tố kết hợp từ việc chiếm đóng của Liên Xô.

Khủng hoảng Con tin tại Iran

Sự xung đột giữa nhân quyền và quyền lợi Hoa Kỳ thể hiện trong cung cách xử lý của Carter trong vụ Quốc vương Iran. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà vua của Iran (Shah) là đồng minh thân cận của Mỹ, là một trong hai "trụ cột song đôi" là nền tảng cho chính sách chiến lược của Hoa Kỳ ở Trung Đông. Song nhà vua cai trị đất nước cách chuyên chế, năm 1953 dựa vào kế hoạch của chính phủ Eisenhower để lật đổ thủ tướng Mohamed Mossadegh. Dù Carter ca ngợi nhà vua như một nhà lãnh đạo khôn ngoan và tài năng, khi các cuộc nổi dậy chống vương quyền bùng nổ ở Iran, chính phủ Carter đã không can thiệp.

Nhà vua bị phế truất và lưu vong. Nhiều người tin rằng không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của vương triều. Carter chuẩn bị công nhận chính quyền mới tại Iran, nhưng nỗ lực của ông không có kết quả.

Quốc vương Iran, Mohammad Reza Pahlavi, hội kiến với Arthur Atherton, William H. Sullivan, Cyrus Vance, Tổng thống Jimmy Carter và Zbigniew Brzezinski, 1977

Ngày 22 tháng 10 năm 1979, Carter cho phép quốc vương bị phế truất, Mohamed Rezza Pahlavi đến Mỹ để tị nạn chính trị và chữa bệnh; ngày 15 tháng 12, Pahlavi rời Mỹ đến Panama. Phản ứng với việc cho phép Pahlavi vào nước Mỹ, quân dân Iran chiếm giữ đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran và bắt giữ 52 con tin người Mỹ. Iran yêu cầu (1) giao trả nhà vua về Iran để chịu xét xử, (2) hoàn trả tài sản của nhà vua cho nhân dân Iran, (3) thừa nhận lỗi lầm của Hoa Kỳ tại Iran trong quá khứ và đưa ra lời xin lỗi, (4) cam kết sẽ không can thiệp vào Iran. Mặc dù nhà vua rời Hoa Kỳ và qua đời ở Ai Cập, cuộc khủng hoảng con tin tiếp tục kéo dài và ảnh hưởng sâu sắc đến năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống, ngay cả sau khi một nửa số con tin được phóng thích. Các phản ứng đối với cuộc khủng hoảng, từ "chiến lược Vườn Hồng" đến nỗ lực bất thành nhằm giải thoát con tin được xem là những nhân tố góp phần vào sự thất bại của Carter trong cuộc bầu cử năm 1980.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Jimmy_Carter //nla.gov.au/anbd.aut-an35026279 http://atomicinsights.blogspot.com/2006/01/picking... http://www.britannica.com/eb/article-9020545?query... http://archives.cnn.com/2001/ALLPOLITICS/02/21/cli... http://www.commentarymagazine.com/cm/main/viewArti... http://abcnews.go.com/US/story?id=95311&page=1 http://mortgage-x.com/general/indexes/prime.asp http://www.msnbc.msn.com/id/18759682/ http://www.nytimes.com/2006/12/29/washington/29fun... http://ourgeorgiahistory.com/people/carter.html